top of page

Realtimes: “Khẩu vị” các quỹ đầu tư đang thay đổi như thế nào?

Chia sẻ về khẩu vị đầu tư startup, tôi mong muốn đầu tư vào startup có khả năng mở rộng, của các nhà sáng lập mà từ những ngày đầu tiên đã có tầm nhìn lớn thiết kế công ty trở thành công ty lớn trong một thập kỉ tới. Ở đó startup cần kiểm chứng được sản phẩm phù hợp với thị trường, tìm được mô hình tăng trưởng có thể tạo ra lợi nhuận bền vững và tạo ra được quy trình vận hành có thể mở rộng. Tôi luôn muốn tìm kiếm những startup có thể phát triển nguồn cung sản phẩm phù hợp với nhu cầu ngày càng ra tăng của thị trường; doanh thu có thể gia tăng liên tục khi startup mở rộng mà không tiêu tốn thêm quá nhiều nguồn lực. P/s: Xin cám ơn quý báo đã nhiệt tình chia sẻ lại nội dung các bài blog của tôi trước đó nhé! Yeah, keep fighting!


Xin mời mọi người đọc full bài báo Long Form này dưới đây nhé!




Bên cạnh đó, dưới đây là những nội dung chia sẻ takeaways của tôi trong bài báo này. Xin cám ơn quý báo rất nhiều đã ưu ái, ủng hộ đăng nhiều nội dung từ các bài Blog trước đó của tôi nhé!



  • Theo bà Hoàng Thị Kim Dung, Giám đốc quốc gia Quỹ Genesia Ventures, những mô hình kinh doanh ngốn nhiều vốn ban đầu kiểu “tiền ra như nước sông Đà, tiền vào nhỏ giọt (hoặc không có) như cà phê phin” sẽ khó thuyết phục được nhà đầu tư hơn.

  • Bà Hoàng Thị Kim Dung cũng nêu quan điểm, thông thường, trong vòng đời hoạt động 10 năm của một quỹ đầu tư, các nhà đầu tư thường sẽ kì vọng các thương vụ đầu tư được thoái vốn (exit) trong khoảng 6~8 năm kể từ lúc đầu tư. Hình thức thoái vốn chỉ được diễn ra khi có sự kiện thanh khoản (Liquidity event), cụ thể là thông qua hình thức bán lại cổ phần sở hữu cho bên thứ ba (Secondary Shares Sales), mua bán sáp nhập M&A, hoặc IPO.

  • Do đó, khi cân nhắc đầu tư vào bất kì một startup, bên cạnh đánh giá tổng quát các các yêu tố về tiềm năng thị trường, năng lực đội ngũ sáng lập và mô hình kinh doanh tạo ra lợi nhuận, các quỹ đầu tư cũng sẽ phải cân nhắc tới khả năng startup có thể có được những sự kiện thanh khoản kể trên trong khung thời gian cho phép để có thể thoái vốn có lợi nhuận hay không.

  • Do đó, các nhà sáng lập startup cần phải tìm hiểu kỹ khi tiếp cận với bất kỳ một quỹ đầu tư nào. Cụ thể, các nhà sáng lập cần hiểu thời gian bắt đầu vận hành của một quỹ, để tính ngược lại quỹ còn bao nhiêu năm hoạt động trong vòng đời của quỹ, thời điểm họ kỳ vọng có thể được thoái vốn và ở mức nào. Dựa trên đó, các nhà sáng lập cần nghiêm túc trả lời câu hỏi, rằng định hướng và mục tiêu phát triển của startup mình liệu có phù hợp với kì vọng của quỹ đầu tư đó hay không?

  • “Thực sự, tôi chỉ có thể đầu tư vào startup có khả năng mở rộng, của các nhà sáng lập mà từ những ngày đầu tiên đã có tầm nhìn lớn thiết kế công ty trở thành công ty lớn trong một thập kỉ tới. Ở đó startup cần kiểm chứng được sản phẩm phù hợp với thị trường (Product Market Fit: PMF), tìm được mô hình tăng trưởng có thể tạo ra lợi nhuận bền vững và tạo ra được quy trình vận hành có thể mở rộng”, bà Dung nói.

  • Bà Dung cũng cho biết luôn muốn tìm kiếm những startup có thể phát triển nguồn cung sản phẩm phù hợp với nhu cầu ngày càng ra tăng của thị trường; doanh thu có thể gia tăng liên tục khi startup mở rộng mà không tiêu tốn thêm quá nhiều nguồn lực. Điều này sẽ cho phép các doanh nghiệp mở rộng quy mô nhanh hơn, hiệu quả hơn.

  • Bà Dung cho rằng, với những tài sản nhiều rủi ro, đặc biệt rủi ro cao như startup, thì đương nhiên sẽ khiến các nhà đầu tư càng trở nên thận trọng và chọn lọc hơn bao giờ hết. Mặc dù nói đầu tư startup với tầm nhìn dài hạn, không bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế trước mắt trong ngắn hạn.

    Tuy nhiên, thực tế khi đầu tư vào startup, các nhà đầu tư sẽ có nhiều sự tính toán kế hoạch, tìm ra thời điểm startup sẽ cần vốn cho các vòng tiếp theo nữa, và câu hỏi đặt ra sẽ là khi đó liệu startup đã có thể đạt được Milestone - những cột mốc quan trọng và tình hình gội vốn có thể thuận lợi cho việc gọi vốn hay chưa.

  • Trong tình hình kinh tế có nhiều khó khăn chung như hiện nay, nhìn chung là tổng cầu giảm, khiến startup có thể sẽ khó đạt được các chỉ tiêu kinh doanh của mình, hoặc cần nhiều thời gian và nguồn lực hơn để đạt được nó. Vì vậy, việc đảm bảo cho startup có thể vượt qua được vòng tiếp theo, để tồn tại và tiếp tục hành trình phát triển của mình sẽ trở nên nhiều rủi ro hơn nữa.

  • Từ thực tế trên, bà Hoàng Thị Kim Dung cũng chỉ ra, mô hình kinh doanh nào có thể thu hút được nhà đầu tư vốn đang có tâm lý “thận trọng” ở giai đoạn hiện nay. Trong đó, các nhà đầu tư chú ý đến những lĩnh vực thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, ví dụ như ăn uống, y tế, giáo dục. Những lĩnh vực này tổng cầu có thể giảm nhưng sẽ không giảm quá mạnh và các startup có sản phẩm phù hợp vẫn thuyết phục được khách hàng và vẫn có nhiều cơ hội phát triển, vẫn có doanh thu và lợi nhuận.

  • Ngược lại, theo bà Dung, những lĩnh vực chưa thiết yếu trong giai đoạn hiện nay như giải trí, thời trang, du lịch… thì có thể sẽ khó khăn hơn. Các startup lĩnh vực này sẽ cần nhiều nguồn lực để thu hút khách hàng trong khi nguồn tiền của doanh nghiệp đang sút giảm trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Như vậy, doanh nghiệp khó có thể có được lợi nhuận để phát triển trong lúc này và khó đạt được Milestone đủ thuyết phục các nhà đầu tư, để tiếp tục vòng gọi vốn tiếp theo. Cũng vì lý do này, mà các nhà đầu tư sẽ dè dặt để đầu tư hơn.

  • Như vậy, theo bà Dung, những mô hình kinh doanh ngốn nhiều vốn ban đầu (Capital Intensive) sẽ khó thuyết phục được nhà đầu tư hơn. Điểm chung của những mô hình kinh doanh này là, “tiền ra như nước sông Đà, tiền vào nhỏ giọt (hoặc không có) như cà phê phin”. Đơn giản là trước bài toán chi phí vốn cao và khó tiếp cận, mà các startup luôn trong trạng thái khát vốn, nếu không có vốn bên ngoài thì coi như là huyệt tử. Do đó, các nhà đầu tư sẽ tập trung tìm kiếm cơ hội ở các mô hình kinh doanh có thể tạo ra Cash flow - dòng tiền bền vững hơn, bởi các nhà sáng lập biết làm chủ cuộc chơi, biết cách khiến công ty có thể tự cường được dù có thể gọi vốn bên ngoài được hay không.

  • Ngoài ra, chỉ số quan trọng khác của các startup ở giai đoạn sớm hiện nay để có thể thuyết phục các quỹ đầu tư rót vốn là tỷ lệ giữ chân khách hàng, hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp, hiệu suất sử dụng vốn. Những chỉ số này cho thấy sự thay đổi khẩu vị rủi ro của các quỹ đầu tư.

  • “Tôi tin rằng, đây cũng chính là những chỉ số quan trọng nhất bên cạnh chỉ số Bottom-line về lợi nhuận của startup, cho thấy được phần nào sự thay đổi khẩu vị rủi ro của các nhà đầu tư mạo hiểm trong việc lựa chọn startup theo mô hình kinh doanh và thị trường ngành nghề có thể tạo ra được những chỉ số bền vững kể trên, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay. Tôi cũng tin rằng, khẩu vị đầu tư đầu tư này vẫn sẽ tiếp tục là xu hướng đầu tư xuyên suốt trong năm 2023 và có thể là tới cả năm 2024, trước khi thị trường thực sự khởi sắc lại với thanh khoản dòng tiền tốt hơn”, bà Dung nói.

  • Bà Hoàng Thị Kim Dung chia sẻ rằng luôn mong muốn đầu tư vào các nhà sáng lập “all-in”, hết mình vào startup của mình, nhưng đây là điều khá thách thức. "Có thể định nghĩa all-in bằng mong muốn mãnh liệt muốn hiện thực hóa ý tưởng, tầm nhìn và mục tiêu của mình để đưa startup thành công thực sự. All-in” có thể hiểu là việc các nhà sáng lập bỏ tất cả tâm huyết, sự tập trung và thời gian của mình vào chỉ một startup của mình cho tới lúc thành công. Yếu tố này thực sự rất quan trọng bởi vì startup là hành trình đầy rủi ro và thách thức, có thể gục ngã bất cứ lúc nào, đòi hỏi startup luôn cần sự tập trung tuyệt đối để tiến về phía trước”, bà Dung nêu.

    Bà Dung cũng cho rằng tỷ lệ thất bại của startup cao tới mức mà dù bạn đã bỏ 99% tâm huyết của mình ra cũng chưa bảo đảm cho thành công. Do đó, nếu không dành tất cả cho startup thì cơ hội đã ít lại càng ít, thậm chí là không thể thành công.

    Do vậy, theo bà Dung, “all-in” có thể hiểu là mong muốn mãnh liệt muốn hiện thực hóa ý tưởng của mình để đưa startup thành công thực sự.

  • "Mong muốn này mãnh liệt tới mức thường trực tâm trí mọi lúc mọi nơi. Nó có thể khiến nhà sáng lập bật dậy lúc giữa đêm khi nghĩ ra lời giải cho vấn đề khó nào đó của startup mình. Nó mãnh liệt tới mức có thể khiến các nhà sáng lập sẽ hạ cái tôi của mình xuống để học hỏi, có thể khiến startup xắn tay áo, lăn xả vào điều hành, suy nghĩ cách làm tốt hơn nữa cho startup của mình. Thậm chí, nhà sáng lập có thể hy sinh quyền lợi, trao quyền cho người “all-in” hơn để thành công thực sự”, bà Dung nêu.

bottom of page